Dưới ánh sáng Lời Chúa | Chúa nhật XX TN, năm A: Người Do Thái với người Sa-ma-ri và dân ngoại

CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA

CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN NĂM A
BÀI 27: NGƯỜI DO THÁI VỚI NGƯỜI SA-MA-RI VÀ DÂN NGOẠI

Trong bài Tin Mừng của Chúa nhật XX thường niên năm A, hẳn là độc giả cảm thấy khó hiểu về thái độ của Đức Giê-su đối với người phụ nữ dân ngoại đến xin Người chữa cho con gái của bà đang bị quỷ ám. Lúc đầu Đức Giê-su tỏ ra ghẻ lạnh và phân biệt đối xử khi Người không đáp lời hoặc buông ra những câu kỳ lạ như : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15,24) và “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15,26). Nhưng ở cuối câu chuyện, Chúa lại khen bà ấy và chữa lành lập tức cho con gái bà : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28).

Hẳn là Đức Giê-su không ghẻ lạnh hay phân biệt đối xử với bất kỳ ai, nhất là những người nghèo hèn, đau khổ. Xem ra Người muốn nhắc nhở các môn đệ và dân chúng về thái độ thù ghét cố hữu giữa người Do-thái với người Sa-ma-ri và dân ngoại. Lời khen tặng và việc chữa lành lập tức cho con gái người phụ nữ Ca-na-an là bài học sống động về tình người và tình huynh đệ giữa mọi người.

Trong bài học hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu những căn cớ của mối tương quan không tốt đẹp giữa người Do-thái với người Sa-ma-ri và dân ngoại.

Các sách Tin Mừng đã nhiều lần nói đến mối tương quan không được tốt đẹp hay thuận thảo giữa người Do-thái với người Sa-ma-ri cũng như dân ngoại. Người Sa-ma-ri và dân ngoại thường bị người Do-thái khinh dể và tránh tiếp xúc (x. Lc 17,17-18). Ngay cả khi sai mười hai tông đồ đi rao giảng, Đức Giê-su cũng ra chỉ thị : “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri” (Mt 10,5). Tuy nhiên, tác giả sách Tin Mừng thứ tư xem ra tế nhị hơn đối với người Sa-ma-ri, khi kể lại câu chuyện Đức Giê-su xin người phụ nữ Sa-ma-ri nước uống ở bờ giếng Gia-cóp (x. Ga 4,1-42). Từ những câu chuyện kể trên, chúng ta thử tìm hiểu đôi chút về lịch sử người Do-thái cũng như của người Sa-ma-ri và dân ngoại, được nói đến trong Kinh Thánh liên quan đến sự xuất hiện của họ, và đâu là mối tương quan giữa họ với nhau trong lịch sử của dân Do-thái và chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

I. Người Do-thái

Tiếng Híp-ri là Giơ-hu-đi (יְהוּדִי) ; tiếng Hy-lạp là Giu-đai-os (Ιουδαῖοϛ).

Người Do-thái là danh từ chỉ một sắc tộc tôn giáo và cũng là một dân tộc có nguồn gốc từ dân Ít-ra-en. Dân Ít-ra-en là con cháu của tổ phụ Gia-cóp vì ông còn có tên là Ít-ra-en (x. St 35, 10). Ít-ra-en theo tiếng Híp-ri (יִשְׂרָאֵֽל) có nghĩa là “người đấu với Thiên Chúa” (St 32,29). Ông Ít-ra-en có mười hai con trai làm thành mười hai chi tộc, và trở thành một dân tộc (x. St 49,1-28). Đó là nguồn gốc của dân Ít-ra-en là dân được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Người (x. Đnl 14,2 ; Xh 19,5). Thiên Chúa còn lập Giao Ước với dân Ít-ra-en và Người trở thành “Thiên Chúa của Ít-ra-en” (x. Is 17,6 ; Gr 7,3 ; Ed 8,4), còn dân Ít-ra-en trở thành “dân của Thiên Chúa” (x. Is 1,3 ; Am 7,8 ; Gr 12,14). Như vậy, dân Ít-ra-en không chỉ là một dân thuộc về lịch sử chính trị như các dân tộc khác, mà còn là một dân thánh được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Người. Dân Ít-ra-en như là trung tâm của lịch sử thánh, để Thiên Chúa thực hiện ý định cứu rỗi của Người cho toàn thể nhân loại.

Từ một dân tộc, Ít-ra-en sau đó trở thành vương quốc Ít-ra-en được thống nhất dưới thời vua Đa-vít (x. 2 Sm 2,4 ; 5,3). Đến thời vua Sa-lô-môn, vào khoảng thế kỷ thứ 10 tCN, khi vua Sa-lô-môn qua đời, vương quốc Ít-ra-en liền bị phân tranh (x. 1 V 12,16). Mười chi tộc hợp thành nước Ít-ra-en (còn gọi là Ép-ra-im hay Sa-ma-ri) ở phía Bắc với kinh đô là Sa-ma-ri, và hai trung tâm phụng tự là Bê-then và Đan (x. 1 V 12,28-31). Còn hai chi tộc Giu-đa và Ben-gia-min làm thành nước Giu-đa ở phía Nam với kinh đô và Đền Thờ ở Giê-ru-sa-lem. Đến năm 721 tCN, nước Ít-ra-en ở phía Bắc bị đế quốc Át-sua xâm chiếm. Sau đó vào năm 587 tCN, nước Giu-đa ở phía Nam cũng rơi vào tay đế quốc Ba-by-lon và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ, còn dân bị đi lưu đày ở Ba-by-lon. Ít lâu sau vào năm 538 tCN, đến lượt đế quốc Ba-by-lon bị sụp đổ, Ky-rô vua đế quốc Ba-tư ra chiếu chỉ cho dân Ít-ra-en được hồi hương và tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem ở nước Giu-đa. Khi trở về quê hương, họ đã xây dựng lại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dù gặp nhiều khó khăn và chống đối của dân Sa-ma-ri. Đến thế kỷ thứ 3 tCN, dân Ít-ra-en lại bị xâu xé bởi các cường quốc Xy-ri, Ai-cập, Hy-lạp rồi Rô-ma. Và đến năm 70 sau CN, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ, dân Ít-ra-en rơi vào tay người Rô-ma và bị người Rô-ma đàn áp bách hại, khiến họ phải tản mác khắp các xứ sở, nhưng vẫn sống còn và luôn mong đợi Đấng Mê-si-a đến giải thoát.

Lướt qua lịch sử dân Ít-ra-en trên đây, có thể nhận thấy danh từ “người Do-thái” được dùng để gọi dân Ít-ra-en thuộc nước Giu-đa ở miền Giu-đê phía Nam (x. 2 V 14,21). Nhưng sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, thuật ngữ “người Do-thái” được dùng để chỉ tất cả con cháu Gia-cóp và những ai theo đạo Do-thái (x. Nkm 1,2 ; 4,6), vì chỉ những người Ít-ra-en sống sót sau thời lưu đày (tức là những người trước đó là dân nước Giu-đa) mới giữ được danh tính Ít-ra-en, còn dân nước Ít-ra-en ở phía Bắc đã bị tứ tán sau cuộc xâm lược của người Át-sua năm 721 tCN và bị hoà lẫn với các dân tộc khác. Từ thực tế lịch sử này, sau thời lưu đày, sự xung đột giữa người Do-thái ở Giu-đê và người Sa-ma-ri ở vùng Sa-ma-ri bắt đầu xảy ra.

II. Người Sa-ma-ri

Tiếng Híp-ri là Sô-mơ-rôn (שֹׁמְרוֹן) ; tiếng Hy-lạp là Sa-ma-ri-tês (Σαμαρῖτης).

Nguồn gốc người Sa-ma-ri gắn liền với lịch sử dân Ít-ra-en. Theo niên biểu của lịch sử Ít-ra-en trong Cựu Ước như đã nói trên, năm 721 tCN, nước Ít-ra-en ở phía Bắc bị đế quốc Át-sua xâm chiếm. Vua Át-sua là Xác-gôn II đã đưa một số dân Ít-ra-en ở Sa-ma-ri đi lưu đày ở Át-sua, và đem các dân ngoại từ các nơi khác đến Sa-ma-ri thế chỗ người Ít-ra-en (x. 2 V 17,24). Các dân ngoại này đem theo thần linh của họ, nhưng dần dần họ cũng tôn thờ cả Thiên Chúa của dân Ít-ra-en ở Sa-ma-ri. Họ từ bỏ tín ngưỡng đa thần của họ và chấp nhận luật Mô-sê. Trong khi đó, những người dân Ít-ra-en còn ở lại Sa-ma-ri phải sống chung đụng với các dân ngoại từ các nơi khác đến. Điều này dẫn đến sự lai tạp tôn giáo giữa các dân ngoại với người Ít-ra-en tại Sa-ma-ri (x. 2 V 17,24-40). Theo thời gian, người Ít-ra-en tại Sa-ma-ri đã bị pha trộn với các dân ngoại qua hôn nhân, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ các tập tục và tôn giáo của dân ngoại, nên không còn là người Ít-ra-en thuần chủng về mặt huyết thống cũng như không còn thuần khiết về tôn giáo nữa.

Chính nguồn gốc lịch sử này đã dẫn đến sự xung đột giữa người Ít-ra-en và người Sa-ma-ri sau thời lưu đày. Cụ thể năm 538 tCN, vua Ky-rô của đế quốc Ba-tư đánh chiếm Ba-by-lon và cho dân Ít-ra-en được hồi hương về lại Giu-đê. Dân Ít-ra-en đã tổ chức tái thiết tường thành và xây dựng lại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Dân Sa-ma-ri muốn được góp phần xây dựng lại Giê-ru-sa-lem, nhưng người Ít-ra-en ở Giu-đê không chấp nhận, vì cho rằng dân Sa-ma-ri không còn mang dòng máu Ít-ra-en nguyên tuyền nữa, và xem người Sa-ma-ri là dân ngoại, thế là xung đột không ngừng xảy ra (x. Er 4,1-5). Những xung đột trên đã dẫn đến việc người Sa-ma-ri xây đền thờ của họ trên núi Ga-ri-dim để thờ phượng Thiên Chúa. Sự kiện này càng đào sâu sự chia rẽ giữa người Ít-ra-en và người Sa-ma-ri.

Vì những lý do lịch sử trên đây, vào thời Đức Giê-su, người Do-thái không giao tiếp với người Sa-ma-ri và họ thường tránh đi vào vùng đất người Sa-ma-ri (x. Ga 4). Hai bên thường có sự nghi kỵ và xung đột nhau (x. Lc 9,51-53). Giới lãnh đạo Do-thái còn dùng từ “người Sa-ma-ri” để nguyền rủa Đức Giê-su mà chất vấn rằng : “Chúng tôi gọi ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao ?” (Ga 8,48).

Thế nhưng, Tin Mừng Gio-an lại kể câu chuyện Đức Giê-su gặp một phụ nữ Sa-ma-ri để xin nước uống và chủ ý bắt chuyện với chị (x. Ga 4,7-9), khiến các môn đệ phải ngạc nhiên (x. Ga 4,27). Cũng vậy, trong Tin Mừng Lu-ca, khi trả lời một thầy thông luật hỏi ai là người thân cận của ông, Đức Giê-su kể một dụ ngôn đề cao một người Sa-ma-ri vì đã đối xử nhân hậu với nạn nhân của kẻ cướp (x. Lc 10,25-37). Và trong câu chuyện mười người phong hủi được Đức Giê-su chữa lành, mà chỉ có một người biết trở lại tạ ơn Đức Giê-su, người đó lại là người Sa-ma-ri (x. Lc 17,11-19).

Trong chương trình cứu độ, Thiên Chúa không loại trừ người Sa-ma-ri. Bằng chứng là khi sống lại, Chúa Giê-su đã nhắc đến miền Sa-ma-ri khi trao sứ vụ truyền giáo cho các môn đệ (x. Cv 1,8). Giáo Hội tiên khởi cũng đã đem Tin Mừng đến với người Sa-ma-ri (x. Cv 8,1-8). Khi biết dân Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, ông Phê-rô và Gio-an đã từ Giê-ru-sa-lem đích thân đến tận Sa-ma-ri cầu nguyện cho họ để họ lãnh nhận Thánh Thần (x. Cv 8,14-17), nhờ đó sự chia rẽ giữa người Do-thái và người Sa-ma-ri được giảm bớt, và Giáo Hội tại Sa-ma-ri phát triển tốt đẹp (x. Cv 9,31).

Vậy còn các dân ngoại thì sao, họ có được đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa hay không ? Chúng ta tìm hiểu xem Kinh Thánh nói gì về họ.

III. Dân ngoại

Tiếng Híp-ri là Gôi (ג֣וֹי) ; tiếng Hy-lạp là Et-nos (ἔθνος).

Đối với người Do-thái, những người không cùng chủng tộc với họ, tức là không phải con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, thì bị coi là dân ngoại. Trong Cựu Ước, các dân ngoại thường thờ các tượng thần và tà thần (x. Đnl 7,4-6). Họ không nhận biết Thiên Chúa nên bị nguyền rủa (x. Xh 20,5), bị dân Ít-ra-en khinh thường và thậm chí coi họ là thù địch. Trong thời chinh phục đất Ca-na-an, sự xung đột và chiến tranh giữa dân Ít-ra-en và các dân ngoại liên tục xảy ra. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn loại trừ bất cứ dân nào ra khỏi chương trình cứu độ của Người, như ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, các dân ngoại sẽ nhận biết Thiên Chúa và sẽ tới Giê-ru-sa-lem để học biết lề luật của Người (x. Is 2,2-4 ; 66,18-21). Vì thế, dân Ít-ra-en phải trở thành ánh sáng thu hút mọi dân nước đến phụng thờ Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã loan báo : “… Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6 ; 42,6 ; 60).

Thế nhưng, đa phần Ít-ra-en lại khước từ trách nhiệm làm ánh sáng cho dân ngoại. Câu chuyện ngôn sứ Giô-na minh hoạ cho thái độ khước từ này, khi ông được sai đến với dân ngoại ở Ni-ni-vê để rao giảng và kêu gọi họ sám hối. Vì thành kiến hẹp hòi với dân ngoại, Giô-na đã bất tuân lệnh Chúa. Sau khi bị quăng xuống biển và được Chúa cứu, ông mới miễn cưỡng rao giảng cho dân Ni-ni-vê. Ông còn tỏ thái độ bực tức khi Chúa tỏ lòng thương xót và tha thứ cho họ nhờ đã  sám hối (x. Gn 3,10–4,11).

Kết

Qua vài nét tìm hiểu về nguồn gốc và lịch sử của dân Do-thái, dân Sa-ma-ri và dân ngoại được nói đến trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy một điều quan trọng, đó là từ muôn đời, Thiên Chúa đã yêu thương tất cả mọi người, không riêng dân Do-thái, dân Sa-ma-ri, mà còn cả các dân ngoại, trong đó có chúng ta, để hết thảy được trở thành con cái của Chúa nhờ Đức Ki-tô (x. Ep 1,3-14). Người đã “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (1 Tm 2,4)Chính vì vậy, Đức Giê-su đã hy sinh chịu chết trên thập giá và đã phục sinh là để cho cả người Do-thái lẫn dân ngoại được phúc lành của ơn cứu độ, như Người đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham xưa (x. St 12,2-3 ; Gl 3,6-14). Cái chết của Chúa Giê-su đã hoà giải dân Do-thái với dân ngoại : “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại thành một ; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,11-14), để từ nay trong Đức Giê-su Ki-tô “không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11).

Cầu nguyện

Thời cánh chung, núi đền thờ Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.

Rằng : “Ðến đây, ta cùng lên núi Chúa,
lên đền thờ Thiên Chúa nhà Gia-cóp,
để Người dạy ta biết lối của Người
và bước theo đường Người chỉ vẽ.

Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống,
từ Giê-ru-sa-lem, lời Chúa phán truyền.
Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.

Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.

Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi,
ta cùng đi, nhờ ánh sáng Chúa soi đường!” (Is 2,2-5)

Nguồn: tgpsaigon.net

bài liên quan mới nhất

Ngày 28/4: Thánh Phêrô Channe – Linh mục, tử đạo (1803-1841)

bài liên quan đọc nhiều

Giới thiệu Tổng quát về Giáo phận Lạng Sơn Cao Bằng